Diễn từ của Đức Thánh Cha nhân dịp kỷ
niệm 25 năm ngày ban hành Tông hiến Fidei Depositum
Phan
Dinh
30/10/2017
DIỄN TỪ CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ
DÀNH CHO CÁC THAM DỰ VIÊN TRONG CUỘC GẶP GỠ
ĐƯỢC TỔ CHỨC BỞI HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG
CỔ VŨ VIỆC TÂN PHÚC ÂM HÓA
Kính thưa quí Đức Hồng Y,
Những người anh em quý mến trong chức vụ Giám mục và trong chức vụ
linh mục,
Kính thưa quí ngài Đại sứ,
Kính thưa quí vị Giáo sư,
Quí anh chị em,
Tôi xin thân ái chào mừng quí vị và xin cảm ơn Đức Tổng Fisichella
về những lời nồng nhiệt dành cho tôi.
Dịp kỷ niệm 25 năm ngày ban hành Tông hiến Fidei Depositum,
qua đó Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II cho phổ biến Sách Giáo lý
của Hội thánh Công giáo, 30 năm kể từ ngày khai mạc Công đồng Đại kết
Vaticanô II, là một cơ may để nhìn lại hành trình đã qua. Nếu như Thánh Giáo
hoàng Gioan XXIII đã ước ao và mong muốn có Công đồng, thì tiên vàn không phải
để lên án các lầm lạc, nhưng nhất là để tạo cơ hội cho Hội Thánh trình bày vẻ
đẹp đức tin của mình nơi Đức Giêsu Kitô bằng một ngôn ngữ được đổi mới.
Trong Diễn văn khai mạc Công đồng, Đức Thánh Cha đã khẳng định:
“Điều cần thiết trước nhất là Hội Thánh không bao giờ được ngoảnh mặt với di
sản sự thật thánh thiêng mà Hội Thánh đã lãnh nhận từ các bậc tiền nhân. Nhưng,
Hội Thánh cũng phải hướng nhìn về thời hiện tại, vốn đang nảy sinh những hoàn
cảnh mới, những hình thức sống mới và đang mở ra những con đường mới cho sứ vụ
loan truyền đức tin công giáo” (ngày 11 tháng 10 năm 1962). Đức Thánh Cha phát
biểu tiếp: “Chúng ta không thể chỉ bảo tồn kho tàng quí báu này như thể chúng
ta chỉ biết quan tâm đến quá khứ, nhưng chúng ta còn phải vui sướng và không sợ
hãi, tiến hành công việc mà thời đại chúng ta đang đòi hỏi, bằng cách tiếp nối
con đường mà Hội Thánh đã đi suốt gần 20 thế kỷ qua” (Ibid.).
“Bảo tồn” và “tiếp nối” đó là mục đích mà Hội Thánh nhắm tới do tự
bản chất của mình, để làm cho sự thật về Tin Mừng Đức Giêsu loan báo đạt đến
tình trạng viên mãn cho tới ngày tận thế. Đó chính là ân sủng đã
được trao ban cho Dân Chúa, nhưng đó cũng chính là bổn phận và
là sứ vụ mà chúng ta có trách nhiệm, để loan báo Tin Mừng muôn
thuở cho những người đang sống cùng thời với chúng ta, với một cách thức mới mẻ
và ngày càng triệt để hơn. Chính trong niềm vui phát xuất từ niềm hy vọng kitô
giáo, và được thêm sức mạnh “nhờ phương dược lòng thương xót” (Ibid.),
chúng ta đến với những người nam và những người nữ trong thời đại chúng ta, để
giúp họ khám phá ra sự giàu có vô tận của con người Đức Giêsu Kitô.
Khi giới thiệu Sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo,
Thánh Gioan Phaolô II đã khẳng định rằng “Sách Giáo lý phải lưu ý đến những
giải thích giáo huấn mà Chúa Thánh Thần đã gợi hứng cho Hội Thánh trong giòng
thời gian. Sách Giáo lý cũng giúp soi sáng những hoàn cảnh mới mẻ và những vấn
đề còn chưa được đặt ra trong quá khứ, nhờ ánh sáng đức tin” (Tông hiến Fidei
Depositum, số 3). Vì thế, Sách Giáo lý này là một công cụ
quan trọng, không chỉ nhằm trình bày cho các tín hữu giáo huấn muôn thuở hầu
giúp họ lớn lên trong sự hiểu biết đức tin, nhưng còn là và nhất là vì Sách
Giáo lý nhắm đến những người đương thời, với những vấn nạn vừa khác biệt vừa
mới mẻ của họ. Chính vì thế mà Hội Thánh nỗ lực trình bày đức tin như một giải
đáp đầy ý nghĩa cho đời sống con người, trong thời khắc đặc thù của lịch sử mà
chúng ta đang sống. Vì thế, sẽ là không đủ nếu chỉ muốn tìm ra một thứ ngôn ngữ
mới mẻ để diễn tả đức tin của muôn thuở. Đối diện với những thách thức mới và
những nhãn quan mới đang mở ra trước mặt nhân loại, việc cần thiết và khẩn
trương là Hội Thánh phải trình bày tính mới mẻ của Tin Mừng Đức Kitô, vốn ẩn
chứa trong Lời Chúa, nhưng vẫn chưa được đưa ra ánh sáng. Đó chính là kho tàng,
vốn “chứa cả cái mới và cái cũ” mà Đức Giêsu đã nói tới, khi Người tập cho các
môn đệ của Người biết dạy cái mới vốn phát sinh từ Người, nhưng không được bỏ
đi cái cũ (x. Mt 13, 52).
Thánh sử Gioan giới thiệu với chúng ta một trong những trang Tin
Mừng đẹp nhất của ngài, khi tường thuật lại điều mà người ta vẫn gọi là “lời
nguyện linh mục” của Đức Giêsu. Trước khi phải đối diện với Cuộc Thương Khó và
cái chết, Người đã ngỏ lời với Chúa Cha, tỏ bày niềm vâng phục trong việc hoàn
tất sứ vụ đã lãnh nhận. Những lời của Người là một bài ngợi ca tình yêu và cũng
hàm chứa ước nguyện cho các môn đệ của Người sẽ được gìn giữ và bảo vệ
(x. Ga 17, 12-15). Đồng thời, Đức Giêsu cũng cầu nguyện cho
những ai sẽ tin vào Người, trong tương lai, nhờ lời rao giảng của các môn đệ
của Người, để những người này cũng được qui tụ lại và được gìn giữ trong sự
hiệp nhất (x. Ga 17, 20-23). Thành ngữ “Sự sống đời đó là họ
nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai
đến, là Đức Giêsu Kitô” (Ga 17, 3) diễn tả tuyệt đỉnh sứ vụ của Đức
Giêsu.
Như chúng ta biết, hiểu biết Thiên Chúa trước tiên không phải là
việc luyện tập thuần lý thuyết của lý trí nhân loại, nhưng là một nỗi khao khát
vô tận vẫn hằng hiện diện nơi tâm khảm của mỗi con người. Đó chính là sự hiểu
biết đến từ tình yêu, bởi vì chúng ta đã gặp gỡ Con Thiên Chúa trên đường đời
của chúng ta (x. Thông điệp Lumen Fidei, số 28). Đức Giêsu Nadaret
vẫn đang đồng hành bên cạnh chúng ta, để dẫn đưa chúng ta vào mầu nhiệm tình
yêu thẳm sâu của Chúa Cha, nhờ lời của Người và những dấu chỉ được thể hiện.
Ngày lại ngày, sự hiểu biết này được củng cố qua niềm xác tín của đức tin, rằng
chúng ta vẫn đang được yêu thương, và như vậy, đang được tháp nhập vào trong
một kế hoạch tràn đầy ý nghĩa. Kẻ đang yêu luôn muốn biết nhiều hơn nữa về
người mình yêu, hầu khám phá ra sự phong phú ẩn tàng nơi người mình yêu, người
mà mỗi ngày vẫn tự tỏ hiện như một thực tại luôn luôn mới mẻ.
Chính vì thế, cần phải nhìn Sách Giáo lý của
chúng ta dưới ánh sáng của tình yêu, tức là như một kinh nghiệm hiểu biết, tin
tưởng và phó thác cho mầu nhiệm. Để xác định cấu trúc riêng biệt, Sách Giáo
lý của Hội thánh Công giáo đã trích lại nguyên văn của Sách
Giáo lý Rôma và đề nghị xem bản văn này như chìa khóa để đọc và thực
hành: “Mọi cùng đích của đạo lý và giáo huấn đều phải được định vị trong tình
yêu vốn không có tận cùng. Vì thế, chúng ta có thể trình bày điều phải tin,
phải hy vọng hay phải làm; nhưng nhất là phải luôn làm nổi bật tình yêu của
Chúa chúng ta, ngõ hầu mỗi người đều hiểu được rằng mọi hành vi nhân đức trọn
hảo Kitô giáo không có một nguồn gốc nào khác ngoài tình yêu và không có mục
đích nào khác ngoài tình yêu” (Giáo lý của Hội thánh Công giáo, số 25).
Khởi đi từ đó, tôi muốn gợi ra đây một đề tài cần được tìm thấy
trong Sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo một vị trí thích đáng hơn và tương
hợp hơn với mục đích này. Tôi nghĩ đến án tử hình. Vấn đề này không
thể được giải quyết chỉ nhờ vào việc nhắc lại giáo huấn đã có trong lịch sử, mà
không làm nổi bật lên cả sự tiến triển trong giáo huấn của các vị Giáo Hoàng
gần đây, lẫn sự tiến triển nơi lương tâm của dân Kitô giáo, vốn không đồng tình
với một hình phạt xúc phạm nặng nề phẩm giá của con người. Chúng ta cần phải
mạnh mẽ khẳng định rằng việc kết án tử hình là một biện pháp phi nhân tính làm
tổn hại phẩm giá của con người, dù dưới bất cứ hình thức thực thi nào. Khi
quyết định cách chủ ý tước đoạt mạng sống của một con người, vốn thánh thiêng
trong mắt Đấng Tạo Hóa, và suy cho cùng chỉ Thiên Chúa mới là vị Thẩm phán đích
thật và là Đấng bảo trợ cho mạng sống này, thì án tử hình tự nó nghịch lại với
Tin Mừng. Không bao giờ, không một người nào “kể cả kẻ giết người lại mất đi
phẩm giá nhân vị của mình” (Thư gửi Ông Chủ tịch Ủy ban quốc tế chống lại án
tử hình, ngày 20 tháng 3 năm 2015), bởi vì Thiên Chúa vốn là một người Cha
luôn luôn trông đợi người con trở về, một khi người con này ý thức được những
lỗi lầm của bản thân, xin được tha thứ và bắt đầu một cuộc đời mới. Chính vì
thế, không ai có thể bị tước đoạt mạng sống, lẫn khả năng hối cải về mặt luân
lý và hiện sinh giúp họ tái hội nhập với cộng đoàn.
Trong những thế kỷ trước đây, vì thiếu những khả năng phòng vệ, và
ý thức xã hội chưa được trưởng thành đầy đủ, việc cậy dựa vào án tử hình được
xem như hệ quả hợp lý trong việc bảo vệ công lý. Quả là đáng tiếc, ngay trong
các Nhà Nước thuộc quyền Giáo hoàng, người ta cũng đã từng sử dụng phương thế
quá đáng và phi nhân tính này, và như vậy làm tiêu tan đi tính ưu việt của lòng
thương xót so với lẽ công bình. Chúng ta chịu trách nhiệm đối với quá khứ, và
chúng ta thừa nhận rằng những phương thế đó vốn bị áp đặt bởi một não trạng vụ
luật hơn là mang tính kitô giáo. Lòng khát khao bảo toàn cho bằng được tất cả
quyền lực và những khối tài sản vật chất đã dẫn đưa người ta đến chỗ đề cao quá
đáng giá trị của lề luật, và như vậy ngăn cản người ta tiến sâu hơn trong việc
hiểu thấu được Tin Mừng. Tuy nhiên, ngày nay, chúng ta sẽ càng có lỗi, nếu cứ
giữ mãi thái độ dửng dưng khi phải đối diện với những đòi hỏi mới mẻ gắn liền
với việc khẳng định lại phẩm giá của con người.
Ở đây, chẳng có gì là mâu thuẫn với giáo huấn của quá khứ: việc
bảo vệ phẩm giá của sự sống con người từ lúc mới thụ thai cho đến khi chết cách
tự nhiên đã luôn được bàn thảo trong giáo huấn của Hội Thánh, bằng một cung
giọng nhất quán và có thẩm quyền. Tuy nhiên, sự phát triển hài hoà của giáo
huấn đòi phải dám bỏ đi những lập trường bám chặt vào những luận chứng từ nay
xem ra thật sự đi ngược với sự hiểu biết mới về chân lý Kitô giáo. Vả lại, đây
cũng chính là điều mà thánh Vincent de Lérins đã nhắc nhở: “Nhưng, có lẽ người
ta sẽ nói: Trong Hội Thánh của Chúa Kitô, phải chăng lại chẳng có một sự tiến
bộ nào về mặt tôn giáo? – Có chứ, cần phải có sự tiến bộ, và quả là đáng kể! Ai
đủ thù hằn đối với nhân loại và đủ thù nghịch đối với Thiên Chúa, để dám chống
lại điều này?” (Commonitorium, 23.1: PL 50). Vì thế,
cần phải lặp lại rằng dù lỗi phạm của người ta có nặng nề đến cỡ nào đi nữa, án
tử hình vẫn là điều không thể chấp nhận, bởi vì hình phạt này xâm phạm vào tính
không thể xâm phạm cũng như phẩm giá của con người.
“Qua giáo lý, đời sống và việc phụng tự, Hội Thánh gìn giữ và lưu
truyền cho mọi thế hệ tất cả thực chất của mình và tất cả những gì mình tin” (Dei
Verbum, số 8). Các Nghị phụ của Công đồng đã không thể tìm thấy một diễn
trình có tính hệ thống nào hay hơn thế để trình bày bản tính và sứ mạng của Hội
Thánh. Không chỉ trong “giáo lý”, mà còn cả trong “đời sống” và trong “phụng
tự”, các tín hữu có thể trở thành Dân Thiên Chúa. Khởi đi từ đó, Hiến chế tín
lý về Mặc Khải của Thiên Chúa đã diễn đạt tính năng động nội tại của tiến trình
này: “Truyền Thống này tiến triển (…) tăng trưởng,
(…) không ngừng hướng tới sự viên mãn của chân lý thần linh,
cho đến khi các lời của Thiên Chúa được hoàn tất nơi chính Giáo hội” (Ibid.).
Truyền Thống là một thực tại sống động, và chỉ có cái nhìn cục bộ
mới có thể nghĩ “kho tàng đức tin” như một cái gì đó tĩnh tại. Lời của Thiên
Chúa không thể được bảo quản trong băng phiến, như kiểu người ta bảo quản một
cái chăn mền cũ nhằm chống lại những vật ký sinh! Không. Lời Thiên Chúa là một
thực tại năng động, luôn sống động, luôn tiến triển, luôn tăng trưởng hướng đến
một tình trạng viên mãn mà con người không thể nào ngăn cản được. Qui luật tiến
triển này, nói theo ngôn ngữ của Thánh Vincent de Lérins: “được củng cố
với tháng năm, được triển nở với thời gian, được thăng hoa với tuổi tác” (Commonitorium,
23.9 : PL50), là điều kiện đặc thù của chân lý mặc khải, như chân
lý này vẫn được Hội Thánh truyền lại, và tuyệt đối không có nghĩa là
thay đổi giáo huấn.
Chúng ta không thể gìn giữ giáo huấn mà lại không làm cho giáo
huấn tiến triển. Chúng ta càng không thể đóng khung giáo huấn trong một lối đọc
cứng nhắc và bất di bất dịch, trừ khi chúng ta xem thường hành động của Chúa
Thánh Thần. “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông
chúng ta qua các ngôn sứ” (Dt 1,1), Ngài “vẫn không ngừng ngỏ lời
với Hiền Thê của Con yêu dấu mình” (Dei Verbum, số 8). Đó chính là lời
mà chúng ta cần phải lấy làm của mình, trong tâm thái “lắng nghe với tâm tình
tôn giáo” (Ibid., số 1), để Hội Thánh của chúng ta tiến về những chân
trời mới, nơi Chúa đang mời gọi chúng ta, với niềm cảm hứng từ những cội nguồn
quá khứ của mình.
Tôi xin cảm ơn quí vị vì cuộc gặp gỡ này và vì công việc của quí
vị; tôi cũng xin quí vị cầu nguyện cho tôi, và tận đáy lòng tôi chúc phúc cho
quí vị. Xin cảm ơn.
ĐGH Phanxicô
Tác giả: Lm. Phêrô Nguyễn Thiên Cung chuyển ngữ
Lm. Phaolô Nguyễn Thành Sang hiệu đính
Nguồn: giaolyductin.net
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét