ĐẠI HỘI GIÁO LÝ TOÀN QUỐC LẦN V –
Thuyết trình 4: DẠY GIÁO LÝ: ĐÀO TẠO
KITÔ HỮU HIỆP THÔNG VỚI MỌI NGƯỜI
Đào tạo các Kitô hữu biết sống hiệp thông với mọi người có lẽ là
một đề tài xa lạ với quan niệm cổ truyền về việc dạy giáo lý, nhưng thực ra đó
lại là một chiều kích không thể thiếu. Qua nhiều thế hệ, việc dạy giáo lý được
quan niệm như là hoạt động dạy cho tín hữu biết những điều phải
“tin-giữ-xin-chịu”: tin vào Chúa, giữ các giới răn, cầu xin, chịu các bí tích.
Ngày nay, việc dạy giáo lý được hiểu là công cuộc đào tạo những con người Kitô
hữu sống mầu nhiệm hiệp thông : “Mục đích tối hậu của việc dạy giáo lý là làm
cho con người không những tiếp xúc, mà còn được hiệp thông mật thiết với Chúa
Giêsu Kitô ; nhờ đó, con người được kết hợp với Chúa Cha, với Chúa Thánh Thần,
với Hội Thánh, và với nhân loại” (Hướng dẫn tổng quát việc dạy giáo lý tại Việt
Nam 2017, số 39).
Dạy giáo lý là một hình thức đặc biệt của sứ vụ loan báo Tin
Mừng ; mà sứ vụ Phúc Âm hóa lại bắt nguồn từ sự hiệp thông và hướng đến sự hiệp
thông: “Hiệp thông và sứ vụ là hai việc không thể tách rời nhau. Chúng thẩm
thấu và bao hàm nhau, đến nỗi có thể nói «hiệp thông vừa là gốc vừa là hoa trái
của sứ vụ : hiệp thông đưa tới truyền giáo và truyền giáo được hoàn thành trong
sự hiệp thông»” (Tông huấn Giáo hội tại châu Á, số 24).
1)
Tinh thần hiệp thông
Nói một cách chính xác, sự hiệp thông (communio) là sự kết hợp
cá vị của từng Kitô hữu với Ba Ngôi Thiên Chúa ; sự kết hợp ấy khởi đầu với đức
tin và bí tích Rửa tội, nhờ đó họ được trở nên chi thể trong Nhiệm Thể Hội
Thánh và thông phần sự sống của Ba Ngôi, và sự kết hợp ấy đạt cao điểm nơi bí tích
Thánh Thể.
Vì thế, ngoài sự hiệp thông với các Giáo hội Kitô khác, sự hiệp
thông với mọi người được bàn ở đây được hiểu theo nghĩa thông thường như là sự
hợp nhất. Cũng như tất cả các sinh hoạt khác của Hội Thánh, việc dạy giáo lý
không thể đi ra ngoài căn tính của Hội Thánh như là bí tích cứu độ, nghĩa là
dấu chỉ và phương tiện của sự hợp nhất của loài người với Thiên Chúa và của
loài người với nhau (x. Hiến chế Ánh sáng muôn dân, số 1). Sự hiệp thông với
mọi người là hoa trái của sự hiệp thông với Ba Ngôi và hiệp thông trong Hội
Thánh.
Bản Hướng dẫn tổng quát việc dạy giáo lý tại Việt Nam 2017 số 56
đưa ra những chỉ dẫn liên quan đến việc kiến tạo hiệp thông với mọi người :
“Việc dạy giáo lý phải vượt ra khỏi khuôn khổ của một «lớp học»,
vươn ra các vấn đề xã hội nhằm xây dựng thiện ích chung theo Tin Mừng. Để thực
hiện điều đó, giáo lý viên giúp học viên giáo lý :
- Quan tâm nhiều
hơn đến những chuyển biến của xã hội, biết đọc các dấu chỉ của thời đại để khám
phá ra sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa, lắng nghe lời mời gọi của Ngài
trong các hoàn cảnh khác nhau ;
- Có khả năng
diễn tả niềm xác tín của mình khi học giáo lý, không chỉ bằng lời nói mà còn
bằng chứng tá về một cuộc sống tốt đẹp, cả về thể lý lẫn tinh thần, nhờ sống
theo các giá trị Tin Mừng ;
- Có khả năng
đáp lại lời mời gọi của Chúa ngay trong cuộc sống, bằng cách dấn thân xây dựng
và bảo vệ môi trường, quan tâm đến người nghèo, đối thoại với các nền văn hóa,
với các tôn giáo và với người vô thần, đồng thời hợp tác với mọi thành phần
trong xã hội phục vụ cho công ích và cho sự sống của con người”.
Nói một cách cụ thể, các tín hữu Công giáo cần kiến tạo sự hợp
nhất với các Kitô hữu khác, với các tôn giáo và các nền văn hóa, với tất cả mọi
người trong xã hội, bằng đối thoại, cầu nguyện, cộng tác, dấn thân phục vụ…
Để có được sự hiệp thông với mọi người, cần có tâm thế hiệp
thông, với một số thái độ cơ bản nơi chủ thể.
1- Cái nhìn tích cực về nhau
Tinh thần hiệp thông khởi đầu bằng nhãn quan tích cực, thiện cảm
và yêu thương.
Năm 1054 Chính Thống giáo đã tách rời khỏi Hội Thánh Công giáo
Roma và hai bên ra vạ tuyệt thông cho nhau. Phải chờ cho đến ngày 6-1-1964, ĐTC
Phaolô VI mới có thể tạo ra bước ngoặt khi gặp gỡ và ôm hôn Thượng Phụ
Athenagoras tại Giêrusalem. Người ta gọi đó là cái hôn lịch sử, vì từ cái hôn
đó, vào ngày 7-12-1965, sát ngày bế mạc Công đồng Vaticano II, ĐTC Phaolô VI và
Thượng Phụ Athenagoras của Constantinopolis đã cùng một lúc xóa bỏ vạ tuyệt
thông lẫn nhau.
Ngày 31-10-1517, Martin Luther yết thị 95 mệnh đề tại cửa Nhà
thờ lâu đài Wittemberg bên Đức. Cuộc Cải cách của Martin Luther mở đầu cho sự
xuất hiện của Tin Lành. Ngày 31-10-2016, ĐTC Phanxicô đã đến thành phố Lund,
Thụy Điển, để cùng với Liên hiệp Tin Lành Luther thế giới tưởng niệm 500 năm
cuộc cải cách của Martin Luther. Liên hiệp này hiện qui tụ 145 Giáo hội Tin
Lành Luther tại 98 quốc gia trên thế giới với tổng số 74 triệu tín hữu. Lễ
tưởng niệm có chủ đề là “Từ xung khắc đến hiệp thông - Liên kết trong hy vọng”
đã diễn ra tại Nhà thờ chính tòa giáo phận Lund. Trong buổi cầu nguyện,
hai đại diện của Tin Lành Luther và Công giáo đã nhìn nhận những đau thương các
tín hữu hai Giáo hội đã gây ra cho nhau trong lịch sử và cầu xin Chúa tha thứ.
ĐGH Bênêđictô 16 phát biểu trong Ngày Thế giới Cầu nguyện cho
Hòa bình tại Assisi, 27-10-2011 :
“Chúng ta thấy tôn giáo như nguyên nhân gây ra bạo lực ngay cả
khi bạo lực được những người bênh vực tôn giáo dùng để chống lại những người
khác. Những người đại diện của các tôn giáo tham dự cuộc gặp gỡ Assisi năm 1986
đã muốn nói lên – và chúng ta mạnh mẽ lặp lại điều này một cách quả quyết –
rằng : đó không phải là thực chất của tôn giáo. Trái lại đó là sự ngụy tạo tôn
giáo và nó góp phần tiêu diệt tôn giáo … Là Kitô hữu, tôi muốn đề cập đến sự
việc này : phải, trong lịch sử, bạo lực đã được sử dụng nhân danh đức tin Kitô
giáo. Chúng tôi thật hổ thẹn khi nhìn nhận điều đó. Nhưng rõ ràng rằng đức tin
Kitô giáo đã bị lạm dụng, trái ngược hoàn toàn với bản chất thực sự của niềm
tin này.”
Muốn kiến tạo hiệp thông, cần có cái nhìn tích cực : không những
không lên án nhau, mà còn nhìn nhận những điều tốt điều đúng nơi người khác,
đồng thời nhìn nhận lỗi lầm riêng của mình. Nếu không, sẽ chẳng bao giờ xây
dựng được sự hợp nhất.
2- Đối thoại
Đối thoại (dia-logue) là lời nói qua nói lại, lời của hai người
nói với nhau, là lời từ trái tim đến trái tim, nhằm hiểu biết lẫn nhau xuyên
qua lời nói và cùng nhau phục vụ hạnh phúc của con người.
“Đối thoại không phải chỉ là một chiến thuật để sống chung hoà
bình giữa các dân tộc ; nhưng đó là một phần thiết yếu trong sứ mạng Hội Thánh,
vì nó xuất phát từ chính sự đối thoại yêu thương của Chúa Cha với nhân loại
thông qua Chúa Con trong quyền năng Chúa Thánh Thần. Hội Thánh chỉ có thể hoàn
thành sứ mạng của mình theo một cách giống như cách Thiên Chúa đã làm trong Đức
Giêsu Kitô : Ngài trở thành con người, chia sẻ cuộc sống con người và nói bằng
ngôn ngữ loài người để truyền đạt sứ điệp cứu độ. Sự đối thoại mà Hội Thánh đề
xuất được xây dựng dựa trên nền tảng là lôgíc của sự Nhập Thể. Bởi đó, không
phải vì điều gì khác hơn là do liên đới một cách nhiệt tình, vô vị lợi, mà Hội
Thánh đã mở cuộc đối thoại với những con người Á Châu đang tìm kiếm sự thật
trong tình thương.” (Tông huấn Giáo hội tại châu Á, số 29)
Để có thể đối thoại, cần đi ra khỏi mình và biết lắng nghe.
Không thể đối thoại nếu không biết nghe. Đôi lúc ta như hai người điếc, không
nghe hoặc nghe mà không hiểu mà vẫn cứ muốn nói, nên rốt cuộc là mỗi người nói
một điều và không bao giờ gặp nhau như hai đường thẳng song song ; hoặc cùng
nói một điều nhưng lại cãi nhau.
Tin Lành và Công giáo xa cách nhau 500 năm vì mỗi người hiểu
“công chính hóa” theo kiểu của mình. Nhưng từ sau Công đồng Vaticanô II, nhờ
đối thoại, Giáo hội Tin lành Luther và Công giáo đã ký kết Tuyên bố chung về
học thuyết công chính hóa, vào ngày 31-10-1999 tại Augsbourg. Sau đó, ngày
17-6-2013, trước mặt Hội đồng Hiệp hội các Giáo hội Luther thế giới (FLM) tại
Thụy Sĩ, Ðức hồng y Kurt Koch, Chủ tịch Hội đồng Tòa thánh Cổ võ sự Hiệp nhất
các Kitô hữu, đã giới thiệu Bản Tuyên ngôn chung của hai Giáo hội Luther và
Công giáo : "Từ xung đột đến hiệp thông : kỷ niệm chung của Luther-Công
giáo trong năm 2017".
3- Cùng nhau hành động vì thiện ích chung
Tinh thần hiệp thông thúc đẩy các Kitô hữu ra khỏi mình để dấn
thân phục vụ tha nhân. Trong buổi tiếp kiến chung ngày 27-3-2013, ĐTC
Phanxicô mời gọi : “Theo Chúa Giêsu có nghĩa là học cách ra khỏi chính
mình, để đi gặp tha nhân, nhất là những người bị lãng quên, những người đang
cần được cảm thông hơn cả, cần an ủi, giúp đỡ. Theo Chúa Kitô, đòi ta phải «ra
khỏi» chính mình, ra khỏi lối sống đức tin mệt mỏi chỉ theo thói quen, ra khỏi
cám dỗ co cụm trong những khuôn khổ của mình, và rốt cuộc khép kín chân trời
hoạt động sáng tạo của Thiên Chúa. Thiên Chúa ra khỏi mình để đến ở giữa chúng
ta, Ngài đã cắm lều giữa chúng ta để mang đến cho chúng ta lòng từ bi của Thiên
Chúa, thì bản thân chúng ta cũng phải trở nên giống Ngài như vậy.”
Sự phục vụ cũng phải phát xuất từ tinh thần hiệp thông, vượt
trên mọi e dè nghi ngại vì khép kín co cụm. Tin Mừng là động lực của hợp tác để
kiến tạo hòa bình và phát triển, chứ không thể là cớ để ngăn cách phe
nhóm.
Tin Mừng Marcô kể: “Ông Gioan nói với Đức Giêsu : «Thưa Thầy,
chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì
người ấy không theo chúng ta.» Đức Giêsu bảo : «Đừng ngăn cản người ta,
vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói
xấu về Thầy. Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta.»” (Mc 9,
38-40).
ĐTC Bênêđictô 16 nói trong Sứ điệp truyền giáo 2010 : “Trong một
xã hội đa chủng tộc ngày càng kinh nghiệm nhiều hơn những hình thức cô đơn và
lãnh đạm, người Kitô hữu phải học biết trao ban những dấu hiệu của niềm hy vọng
và trở thành anh chị em của mọi người, khi vun trồng các lý tưởng lớn nhằm biến
đổi lịch sử, và, không chút ảo tưởng hay lo sợ viễn vông, biết dấn thân làm cho
hành tinh này trở thành ngôi nhà của mọi dân tộc … Tin Mừng là men của tự do và
phát triển, là nguồn mạch của tình huynh đệ, sự khiêm nhường và hoà bình”.
2)
Hiệp thông với mọi người
a) Hiệp thông với các Giáo hội Kitô
Với Sắc lệnh về đại kết, Công đồng Vaticanô II cho thấy giữa
Giáo hội Công giáo và các Giáo hội Kitô khác đã có sự hiệp thông theo nghĩa hẹp
rồi, hiệp thông thực sự dù chưa trọn vẹn. Sự hiệp thông này đặt nền tảng trên
lòng tin vào Đức Kitô và bí tích Rửa tội. Các cộng đoàn Kitô khác cũng được gọi
là Giáo hội hoặc cộng đoàn Giáo hội, vì họ cũng chứa đựng nhiều yếu tố cấu
thành Hội Thánh, tuy không đầy đủ.
Từ đó, Hội Thánh Công giáo không còn gọi các Giáo hội Kitô khác
là ly khai, nhưng là anh chị em. Từ nay tất cả các Giáo hội, Công giáo cũng như
các Giáo hội Kitô khác, không được lên án nhau, mà cùng nhau tìm về hợp nhất
như ước muốn của Đức Kitô. Sự chia rẽ giữa các Kitô hữu là gương xấu rất lớn
cản trở công cuộc loan báo Tin Mừng. Công cuộc kiến tạo hợp nhất giữa các Giáo
hội được gọi là “đại kết”.
“Muốn cho công cuộc đại kết được trung thực và sinh kết quả,
phía người Công giáo cần phải có một số thái độ căn bản : trước hết là bác ái,
biểu lộ qua sự nhân hậu và lòng khao khát cộng tác mỗi khi có thể với tín hữu
các Giáo hội và các Cộng đồng khác ; thứ đến là trung thành đối với Giáo hội
Công giáo của mình, dù vẫn không làm ngơ hay phủ nhận những khuyết điểm của một
số thành phần trong Giáo hội ; ba là phải có óc phân định để biết đánh giá tất
cả những gì là tốt đẹp và đáng khen. Sau cùng là chân thành ước ao được thanh
tẩy và được đổi mới.” (Tông huấn Giáo hội tại châu Á, số 30)
Công cuộc đại kết có thể được thực hiện trên nhiều bình diện :
- Đại kết về tinh thần : tha thứ cho nhau, sống thánh
thiện, cầu nguyện ;
- Đại kết về thần học : nghiên cứu đạo lý, tìm ra những
tương đồng và dị biệt, điều chính điều phụ, nội dung cốt lõi và cách diễn tả ;
- Đại kết trong hành động : cộng tác với nhau trong các
công tác bác ái nhằm phục vụ nhân loại.
Trong thực tế tại Việt Nam, ngoài các tín hữu Công giáo, dường
như chỉ có anh chị em Tin Lành là Kitô hữu, với khoảng 400.000 vào năm 1999 và
tăng lên 1.200.000 vào năm 2005.
Trước năm 1975, một số chuyên viên Kinh Thánh của Công giáo và
Tin Lành đã làm việc chung với nhau để dịch một phần Kinh Thánh sang tiếng
Việt.
Các tín hữu Công giáo có thể học hỏi nơi anh chị em Tin Lành
lòng hăng say học hỏi Kinh Thánh và cầu nguyện với Lời Chúa, nhiệt thành loan
báo Chúa Giêsu bằng nhiều cách.
Phê bình nói xấu hoặc cạnh tranh là cám dỗ cho các Kitô hữu từ
hai Giáo hội. Cần đi theo hướng dẫn của Hội Thánh để nhìn nhận giá trị tích cực
của nhau, hướng tới một cuộc đối thoại để cùng làm chứng cho Tin Mừng chứ không
tìm củng cố vị thế của mình.
Trong hoạt động dạy giáo lý, cần củng cố đức tin cho học viên.
Có những vấn nạn động chạm đến những điều cốt yếu của đức tin Công giáo. Có thể
các học viên đã nhiều lần đối diện với những câu hỏi ấy, nên cần được hướng dẫn
để có thể “luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng
của anh em. Nhưng phải trả lời cách hiền hòa và với sự kính trọng” (1Pr 3,
15-16).
b) Đối thoại với các tôn giáo
Sự hiệp thông với các tôn giáo được hiểu như là tiếp xúc, đối
thoại và cộng tác với tín đồ các tôn giáo khác.
Tuyên ngôn Vào thời đại chúng ta (28-10-1965) của Công đồng
Vaticanô II và tông huấn Giáo hội tại châu Á số 31 (6-11-1999) của ĐTC
Gioan-Phaolô II đã chỉ ra các nguyên tắc cho việc đối thoại với các với các tôn
giáo.
Đối thoại liên tôn giáo không phải chỉ là một cách để giúp các
bên hiểu biết nhau và làm giàu cho nhau, mà còn là một phần trong chính sứ mạng
Phúc Âm hoá.
Hội Thánh nhìn nhận bất cứ điều gì chân thật và thánh thiện
trong các truyền thống tôn giáo, tuy nhiên không phải vì thế mà Hội Thánh quên
đi sứ mạng của mình là minh nhiên tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là "đường đi,
sự thật và sự sống".
Trong quá trình đối thoại, "không được bỏ qua những nguyên
tắc hay theo chủ nghĩa thoả hiệp giả tạo, trái lại, cả hai bên đều phải đưa ra
và tiếp nhận được những bằng chứng giúp nhau tiến tới trên con đường tìm tòi và
sống kinh nghiệm tôn giáo, cũng như loại trừ những thành kiến, thái độ bất
khoan nhượng và những ngộ nhận về nhau. Chỉ những ai có đức tin Kitô giáo
trưởng thành và sâu sắc mới đủ tư cách tham gia việc đối thoại liên tôn chính
hiệu.” (Giáo hội tại châu Á số 31).
Cuộc đối thoại cần được thực hiện bằng cuộc sống và bằng tình
yêu, với con tim dịu dàng khiêm tốn, cởi mở, có thiện chí lắng nghe nhau, tôn
trọng và cảm thông với người khác trong sự dị biệt của họ.
Đó là điều kiện cơ bản để từ đó có thể gặp gỡ, cộng tác, hoà hợp
và làm giàu cho nhau, qua những hoạt động cụ thể như trao đổi mang tính hàn lâm
giữa các chuyên gia về các truyền thống tôn giáo, cùng nhau hoạt động cho sự
phát triển con người toàn diện, bảo vệ các giá trị nhân bản và tôn giáo.
Cuộc gặp gỡ giữa Hội Thánh Công giáo và đại biểu các tôn giáo
khác trên thế giới tại Assisi ngày 27-10-1986 cho thấy mọi người có tôn giáo
không cần phải từ bỏ truyền thống của mình, vẫn có thể tham gia cầu nguyện và
hoạt động cho hoà bình và thiện ích của nhân loại.
Tại Việt Nam, có tín đồ của Phật giáo (khoảng 12 triệu), Phật
giáo Hòa Hảo, Cao Đài, Hồi giáo, Ba Ha’i, Balamon… Trong lịch sử, sự căng thẳng
giữa một số Kitô hữu Công giáo và tín đồ Phật giáo không phải là không có, và
đôi khi phát xuất từ nhiều động cơ.
Cuộc đối thoại liên tôn mới chỉ được thực hiện ở tầm mức cá nhân
hay tập thể nhỏ, qua một vài cuộc gặp gỡ, mừng lễ, giao lưu hữu nghị hoặc hợp
tác trong hoạt động từ thiện. Tại Học viện Mục vụ của TGP Sài Gòn, đã có các
khóa học về mục vụ đối thoại liên tôn để học hỏi về các tôn giáo, giáo huấn của
Hội Thánh về đối thoại liên tôn và kỹ năng thực hành đối thoại liên tôn.
Khá nhiều tín hữu Công giáo còn e dè trong việc gặp gỡ và hợp
tác với tín đồ của các tôn giáo, thậm chí không ít người vẫn còn giữ cái nhìn
tiêu cực hoặc kết án các tôn giáo khác. Hơn ai hết, giáo lý viên cần học hỏi
giáo huấn của Hội Thánh để sống tinh thần hiệp thông và gieo rắc tinh thần hiệp
thông ấy cho các thế hệ Kitô hữu trẻ.
“Chúng ta, những người Phật tử và Kitô hữu, chúng ta đang sống
trong một thế giới thường quá bị sâu xé bởi sự áp bức, thói ích kỷ, chế độ bộ
tộc, những đối lập sắc tộc, trào lưu thủ cựu tôn giáo và bạo lực ; một thế giới
trong đó ‘tha nhân’ bị coi và đối xử như là một hữu thể hạ đẳng không phải là
người hay như một ai đó phải sợ hãi và, nếu có thể, phải loại trừ. Tuy nhiên,
chúng ta được mời gọi, trong tinh thần hợp tác với tất cả các người hành hương
thiện chí, tôn trọng và bảo vệ nhân tính chúng của chúng ta trong sự đa
dạng xã hội-kinh tế, chính trị và tôn giáo. Bén rễ trong những xác tín tôn giáo
khác nhau, chúng ta được mời gọi công khai tố giác mọi sự xấu xa trong xã hội
vốn làm hại đến tình huynh đệ ; chữa lành người khác khỏi những gì ngăn
cản họ lớn lên trong sự quảng đại vô vị lợi, trở nên những người hòa giải phá
đổ các bức tường chia rẽ trong xã hội, và thăng tiến một tình huynh đệ đích
thực giữa các cá nhân và các nhóm người.” (Thư chúc mừng của Hồng y Jean-Louis
Tauran, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Đối Thoại Liên Tôn, dịp lễ Vesakh
2014).
c) Đối thoại với mọi người trong xã hội
Theo thống kê 2005, Việt Nam có khoảng 81% dân số được ghi là
những người không theo tôn giáo nào. Trong thực tế, đại đa số sống theo tín
ngưỡng dân gian, như niềm tin vào Ông Trời, tôn kính Ông Bà Tổ Tiên, đời sống
tâm linh và nhân sinh quan mang đậm dấu ấn của Tam giáo (Phật giáo, Khổng giáo
và Lão giáo). Tín ngưỡng dân gian này ảnh hưởng sâu đậm trong lòng người dân
Việt và trở thành một nền văn hóa tâm linh, nên ngay cả nhiều người tự nhận là
vô thần cũng sống theo nhân sinh quan của tín ngưỡng dân gian này.
Cần phải “tập trung chú ý tới hoạt động vừa nhiều vừa đa dạng
của Chúa Thánh Thần, Đấng vẫn tiếp tục gieo các hạt giống chân lý vào các dân
tộc, tôn giáo, văn hoá và triết lý của họ. Nói thế có nghĩa là những tôn giáo,
văn hoá và triết lý ấy có thể giúp con người, cá nhân lẫn tập thể, chống lại sự
dữ và phục vụ sự sống cũng như tất cả những gì tốt đẹp. Lực lượng tử thần luôn
luôn tìm cách cô lập con người, xã hội và các cộng đồng tôn giáo với nhau, gieo
rắc nghi ngờ và cạnh tranh, đưa người ta tới chỗ xung đột với nhau. Ngược lại,
Thánh Thần luôn nâng đỡ con người đi tìm sự hiểu biết và đón nhận nhau. Thế
nên, Thượng Hội Đồng đã có lý khi xem Thánh Thần Thiên Chúa là tác nhân chính
yếu của việc đối thoại giữa Hội Thánh với mọi dân tộc, mọi nền văn hoá và mọi
tôn giáo.” (Giáo hội tại châu Á số 15).
Để đối thoại với mọi người trong cộng đồng dân tộc, các tín hữu
Công giáo Việt Nam cần nhìn nhận và sống những giá trị tích cực trong văn hóa
của dân tộc mình. “Người Việt Nam có truyền thống văn hóa lâu đời, luôn đề cao
các giá trị tinh thần và đạo đức như uống nước nhớ nguồn, thờ cha kính mẹ, tình
nghĩa gia đình, tình làng nghĩa xóm, tôn sư trọng đạo, trọng tín nghĩa, khẳng
khái, chân thành, thậm chí sẵn sàng chết vì lòng trung nghĩa, đoàn kết hào hùng
chống ngoại xâm.” (Hướng dẫn tổng quát việc dạy giáo lý tại Việt Nam 2017, số
10)
Hiện nay trong đời sống xã hội, các lễ hội dân gian và nhiều
phong trào như tin vào phong thủy, ngoại cảm, đang tạo nên một loại văn hóa tâm
linh, thậm chí các tôn giáo đúng nghĩa nhiều khi cũng bị giản lược thành văn
hóa tâm linh. Điều xem ra nghịch lý là trong một thế giới khoa học kỹ thuật,
tuyên xưng vô thần, nhiều người lại tin vào một quyền lực huyền bí nào đó, vu
vơ, mơ hồ, với mong ước được thuận lợi trong đời sống hằng ngày, nhất là về vật
chất. Hiện tượng mê tín dị đoan cũng phát xuất từ đó.
Nhiều tín hữu Công giáo cũng chịu sự tác động của văn hóa thời
đại này. Không ít Kitô hữu cũng đi nước đôi trong đời sống tôn giáo : một đàng
vẫn thực hành những việc đạo đức, nhưng đồng thời lại làm những việc mê tín dị
đoan không phù hợp với đức tin Công giáo.
Để có thể đối thoại với mọi người trong xã hội, việc dạy giáo lý
phải giúp cho tín hữu Công giáo hiểu niềm tin của mình, xác tín về tính đặc thù
của đức tin Công giáo, chứ không phải theo quan niệm đánh đồng “đạo nào cũng
dạy ăn ngay ở lành” và cầu xin thần thánh trợ giúp.
Ngoài ra, đạo hiếu là một nhịp cầu hết sức cần thiết và hữu hiệu
liên kết các Kitô hữu và mọi người dân Việt. Từ ngày lập quốc đến nay, đạo hiếu
đã luôn là rường cột trong nền luân lý của dân tộc Việt Nam. Tinh thần hiếu
thảo được thể hiện không những đối với cha mẹ là Hạ Phụ, mà còn đối với Thiên
Chúa là Thượng Phụ, với Quân Vương là Trung Phụ.
Việc dạy giáo lý cần cổ võ đặc biệt lòng tôn kính tổ tiên. Trong
hằng trăm năm, người Công giáo bị hiểu lầm là theo văn hóa ngoại lai nên từ bỏ
ông bà cha mẹ, đặc biệt trong việc cúng giỗ. “Những cử chỉ, thái độ và nghi lễ
tự nó hoặc do hoàn cảnh, có một ý nghĩa thế tục rõ ràng là để tỏ tinh thần ái
quốc, lòng hiếu thảo, tôn kính hoặc tưởng niệm tổ tiên và các bậc anh hùng liệt
sĩ (như treo ảnh, hình, dựng tượng, nghiêng mình bái kính, chưng hoa đèn, tổ
chức ngày kỵ, giỗ...) thì được thi hành và tham dự cách chủ động” (Thư của Bộ
Truyền Giáo về việc tôn kính Tổ Tiên, ngày 20-10-1964).
Trong đời sống gia đình, lòng tôn kính tổ tiên và hiếu thảo cũng
chính là chứng từ có tính thuyết phục góp phần rất lớn vào công cuộc loan báo
Tin Mừng. Trong các khóa giáo lý hôn nhân, cần giúp các bạn trẻ kết hôn với
người bên lương (không được rửa tội hoặc có rửa tội) lưu tâm tới tầm quan trọng
của điều này.
Cũng thế, các khóa giáo lý cần giúp cho người Công giáo sau khi
kết hôn về sống giữa gia đình bên lương, phải trở thành một Kitô hữu thật tốt
để làm tỏa sáng vẻ hấp dẫn của đức tin Công giáo. Một bạn trẻ Công giáo kết hôn
với người bên lương càng cần xác tín và sống đức tin của mình gấp nhiều lần hơn
bình thường.
Việc đối thoại với mọi người trong xã hội cũng đòi các Kitô hữu
mở rộng trái tim và đôi tay để hợp tác với mọi người thiện chí trong công cuộc
lành mạnh hóa xã hội và thăng tiến con người. Hiện nay hiện tượng xuống cấp về
đạo đức và văn hóa trong xã hội là rất đáng lo ngại. Bất công, gian dối, bạo
lực, tàn ác, ngày càng lan rộng và trầm trọng. Môi trường sống bị hủy hoại,
người nghèo bị bỏ rơi, người yếu thế bị áp bức và loại trừ…
Trước thực trạng đó, phải cấp bách đưa học thuyết xã hội của
Giáo hội vào chương trình giáo lý, nhất là cho người trưởng thành. Giáo lý
không còn chỉ là dạy “giữ tin xin chịu”, nhưng còn là dạy “làm”, hành động để
thăng tiến phẩm giá con người cách toàn diện. Kế hoạch của loan báo Tin Mừng là
Phúc Âm hóa con người toàn diện, gồm cả hồn lẫn xác, cả cá nhân và xã hội, cả
con người và vũ trụ vật chất.
Để
kết
Trong sứ điệp gửi Đại hội giáo lý quốc tế tại Buenos Aires (từ
11 đến 14-7-2017), ĐTC Phanxicô khích lệ các giáo lý viên chu toàn sứ mệnh phục
vụ Hội Thánh bằng cách sống mật thiết với Chúa Giêsu và dùng mọi phương
thế để loan báo Ngài, trước hết bằng chứng tá cuộc sống.
Mở đầu sứ điệp, ĐTC trích câu của thánh Phanxicô Assisi trả lời
các tu sĩ xin thánh nhân dạy cho các vị biết giảng dạy : “Hỡi anh em, khi chúng
ta thăm viếng các người đau yếu, giúp đỡ trẻ em và cho người nghèo ăn là chúng
ta đã giảng dạy rồi”. ĐTC nói : “Câu trả lời hay đẹp này tóm gọn ơn gọi và
nhiệm vụ của giáo lý viên. Giáo lý viên không phải là một công việc hay một
nhiệm vụ bên ngoài con người của mình, nhưng là một ơn gọi phục vụ Hội Thánh,
đã nhận được từ Chúa và phải thông truyền trong suốt cuộc đời. Giáo lý viên
phải luôn luôn quy hướng về lời loan báo ban đầu là ơn thay đổi cuộc sống. Việc
loan báo này phải đi kèm đức tin đã hiện diện trong tâm tình tôn giáo của dân
tộc chúng ta. Cần phát triển tiềm năng lòng đạo đức và tình yêu thương nằm
trong tâm tình tôn giáo bình dân để thông truyền các nội dung đức tin và tạo ra
một trường đào tạo giúp vun trồng ơn đã nhận lãnh.
Để được như thế, giáo lý viên phải là người bước đi từ Chúa Kitô
và với Chúa Kitô, chứ không phải khởi hành từ các tư tưởng và sở thích của
riêng mình. Càng biết lấy Chúa Kitô làm trung tâm điểm, giáo lý viên càng ra
khỏi chính mình và gần gũi tha nhân, theo gương Chúa Giêsu sống thân tình với
Thiên Chúa Cha rồi gặp gỡ các người đói khát, chữa lành họ và cứu vớt họ.”
Khi được hỏi về nét đặc thù giữa ba vị Giáo hoàng vĩ đại gần
đây, ĐHY Blase Joseph Cupich, tổng giám mục Chicago, nói : ĐTC Gioan-Phaolô II
dạy cho chúng ta biết ta phải làm gì (What we should do ?), ĐTC Bênêđictô XVI
dạy cho ta biết tại sao ta phải làm điều đó (Why we should do ?), còn ĐTC
Phanxicô bảo ta làm đi (Do !), và ngài đã làm trước.
Dạy giáo lý cần phải là tổng hợp của cả ba điều đó.
+ Giuse Nguyễn Năng
CÂU HỎI THẢO LUẬN
Câu 1
Một trong những nhiệm vụ của việc dạy giáo lý là đào tạo các tín
hữu Công giáo hiệp thông với các Kitô hữu khác qua hoạt động đối thoại đại kết.
1. Những thuận lợi và khó khăn.
2. Một cách cụ thể :
1) Đưa việc đào tạo này vào phần nào trong
tổng thể chương trình giáo lý ? Hoặc xen vào những chỗ nào ?
2) Nội dung giảng dạy những gì ?
3) Cho các học viên thực tập điều gì ?
Câu 2
Một trong những nhiệm vụ của việc dạy giáo lý là đào tạo các tín
hữu Công giáo hiệp thông với tín đồ của các tôn giáo khác qua hoạt động đối
thoại liên tôn.
1. Những thuận lợi và khó khăn.
2. Một cách cụ thể :
1) Đưa việc đào tạo này vào phần nào trong
tổng thể chương trình giáo lý ? Hoặc xen vào những chỗ nào ?
2) Trong chương trình giáo lý, có cần trình
bày các tôn giáo tại Việt Nam ?
3) Các học viên cần thực tập điều gì ?
Câu 3
Một trong những nhiệm vụ của việc dạy giáo lý là đào tạo các tín
hữu Công giáo hiệp thông với mọi người trong xã hội.
1. Đạo hiếu và việc thờ kính tổ tiên góp
phần thế nào trong công cuộc Phúc-Âm-hóa tại Việt Nam ?
Trong việc dạy giáo lý, dạy cho các dự tòng thế nào ? Dạy cho
các tín hữu Công giáo kết hôn với người bên lương hoặc với dự tòng thế nào ?
2. Giáo huấn xã hội của Giáo hội có chỗ
đứng nào trong chương trình giáo lý ?
Tác giả: + Giuse
Nguyễn Năng
NGUỒN: giaolyductin.net